Quy định Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: Trợ giúp tối đa cho người lao động

Theo Luật Vệ sinh an toàn lao động và các văn bản hướng dẫn dưới Luật ban hành đi kèm, kể từ ngày 1/7/2016, chủ sử dụng lao động bắt buộc phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ và BNN) cho người lao động nhằm bảo đảm hơn đời sống của những lao động khi bị TNLĐ và BNN.

Hợp đồng từ 3 tháng trở lên phải đóng BHTNLĐ

Cụ thể, theo Nghị định số 37/2016/NĐ-CP, người sử dụng lao động (NSDLĐ) hàng tháng đóng mức 1% trên quỹ tiền lương đóng BHXH của người lao động (NLĐ) là cán bộ công chức, viên chức (CBCCVC) theo quy định của pháp luật về CBCCVC; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật sông an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; người làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) không xác định thời hạn và HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 03 tháng, không bao gồm NLĐ là người giúp việc gia đình (áp dụng từ ngày 1/1/2018); người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã (HTX) có hưởng tiền lương.

Đối với NLĐ là hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí, mức đóng quy định là 1% trên mức lương cơ sở. Trường hợp NSDLĐ là doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm hoặc khoán được thực hiện hàng tháng, 3 tháng hoặc 6 tháng một lần. Từ ngày 1/1/2018 trở đi, Chính phủ quyết định mức đóng thấp hơn mức đóng quy định nêu trên.

Mất 5% khả năng lao động được hưởng chế độ TNLĐ

Với việc tham gia bảo hiểm này, người lao động được hưởng chế độ TNLĐ khi có đủ các điều kiện theo quy định và mất ít nhất 5% khả năng lao động do bị tai nạn lúc đang làm việc thì được hưởng trợ cấp TNLĐ. Trường hợp bị suy giảm khả năng lao động từ 5-30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Cụ thể, người lao động bị suy giảm 5% khả năng lao động được hưởng trợ cấp tương đương 5 tháng lương tối thiểu chung. Sau đó cứ suy giảm thêm 1% khả năng lao động thì được hưởng thêm 0,5% tháng lương tối thiểu chung. Với những trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hàng tháng.

Cụ thể, suy giảm 30% khả năng lao động được hưởng 30% mức lương tối thiểu chung. Sau đó, cứ mỗi 1% khả năng lao động bị suy giảm thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung. Cả 2 diện này ngoài khoản trợ cấp hàng tháng, người lao động được hưởng trợ cấp tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội. Nếu tham gia đóng từ 1 năm trở xuống, mức hưởng được tính bằng 50%. Sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 30% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

Nếu người lao động đang làm việc bị chết do TNLĐ, bệnh nghề nghiệp (BNN) thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung. Ngoài ra, người lao động bị TNLĐ mà không phải do lỗi của người đó; bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì người sử dụng lao động phải bồi thường theo quy định.

Đối với người lao động giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, khi bị TNLĐ, BNN sẽ được hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng hoặc một lần được tính trên cơ sở tổng các mức tiền lương làm căn cứ đóng vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của tất cả các hợp đồng lao động tại thời điểm xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, nhưng không quá mức tối đa theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội.

Ngoài ra, người lao động khi bị TNLĐ và BNN sẽ được hỗ trợ khám bệnh nhằm phát hiện và giám định mức suy giảm khả năng lao động do mắc bệnh nghề nghiệp, kể cả khi đã nghỉ hưu. Vì vậy, trong khoảng thời gian kể từ ngày nghỉ hưu, chuyển việc khác hoặc thôi việc, người bị bệnh nghề nghiệp sẽ vẫn được hưởng các khoản hỗ trợ theo quy định mới.

Như vậy, với quy định mới trên, các chế độ đối với người bị TNLĐ không những được đảm bảo mà còn giúp triển khai việc phòng ngừa TNLĐ cũng như hỗ trợ huấn luyện, đào tạo lại cho NLĐ sau khi bị tai nạn được tốt hơn để họ trở lại làm việc nếu như NLĐ có nhu cầu. Còn đối với các DN thì được hưởng các chính sách hỗ trợ phòng ngừa TNLĐ; huấn luyện, đào tạo lại cho NLĐ sau khi bị tai nạn…

Vi phạm nặng truy cứu trách nhiệm hình sự

Tuy nhiên, nhằm đảm bảo chủ sử dụng lao động chấp hành nghiêm việc đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động, bên cạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, Luật ATVSLĐ cũng quy định rõ các hình thức xử lý đối với đơn vị vi phạm, cụ thể: Người sử dụng lao động có hành vi trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm TNLĐ, BNN, chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN quy định tại Luật này từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi suất đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng.

Nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội; người nào vi phạm pháp luật về ATVSLĐ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật. Chính phủ cũng quy định chi tiết về hành vi, hình thức và mức xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATVSLĐ quy định trong Luật này.


  • 08/11/2016 01:50
  • Nguồn: Lao động Thủ đô
  • 2417