Lưu lượng nước về hồ thủy điện Sơn La ổn định - Ảnh: Xuân Tiến
|
A0 tính toán, tổng sản lượng thủy điện theo mức nước về tháng 9 là 8,052 tỷ kWh. Dự kiến sản lượng thủy điện khai thác trong tháng 9 của cả hệ thống là 6,090 tỷ kWh, sản lượng tích thêm trong hồ là 1,859 tỷ kWh. Mực nước cuối tháng 9 còn lại trong các hồ tương ứng 9,707 tỷ kWh, cao hơn kế hoạch dự kiến trong phương án Bộ Công Thương phê duyệt 2,225 tỷ kWh (phương án phê duyệt sản lượng còn lại trong hồ cuối tháng 9 là 7,482 tỷ kWh).
Để đáp ứng nhu cầu nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân phía hạ du, A0 đã đưa các yêu cầu cấp nước hạ du vào các chương trình mô phỏng và coi đây như là một ràng buộc để lập kế hoạch huy động. Các hồ cần đáp ứng nhu cầu cấp nước hạ du trong tháng 9 là: Cửa Đạt, Bình Điền, Khe Bố, A Vương, Sông Tranh 2, Đăk My 4 (khu vực Vu Gia – Thu Bồn), Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Sê San 4A...
Được biết, trong tháng 8, lưu lượng nước về các hồ ở miền Bắc đều xấp xỉ và vượt giá trị trung bình nhiều năm. Riêng hồ Sơn La, lượng nước về thấp hơn giá trị trung bình nhiều năm nhưng cao hơn giá trị cùng kỳ năm 2012, tần suất nước về hồ Sơn La đạt 75%. Các hồ thuỷ điện ở Bắc Trung Bộ, lưu lượng nước về hồ Hủa Na, Cửa Đạt, Bản Vẽ, Khe Bố vượt giá trị trung bình nhiều năm (Tần suất nước về từ 9% - 32%). Các hồ thủy điện ở Nam Trung Bộ: Hồ Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krông Hnăng, An Khê KaNak dòng chảy cao hơn giá trị trung bình nhiều năm (Tần suất đạt từ 13%-55%).
Riêng các hồ thuỷ điện ở Trung Trung Bộ như hồ Quảng Trị, Hương Điền, Bình Điền, Đăk Mi, A Vương, Sông Côn, Sông Tranh đang trong giai đoạn cuối mùa kiệt, lưu lượng về hồ rất thấp. Thuỷ điện khu vực Tây nguyên: Các hồ Plêikrông, Ialy, Buôn Tua Srah dòng chảy thấp hơn giá trị trung bình nhiều năm (Tần suất đạt 57%-85%). Đối với các hồ thuỷ điện ở miền Nam: Các hồ đều đạt xấp xỉ giá trị trung bình nhiều năm.